Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2016

XỨ ỦY NAM KỲ TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM


Khu căn cứ Xứ ủy Nam kỳ trong kháng chiến chống Pháp. Nguồn ảnh:

PGS,TS Đức Vượng

1. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào ngày 3-2-1930, các Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ lần lượt được thành lập. Tháng 10-1930, Hội nghị Trung ương 1 họp, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, lại có thêm Xứ ủy Cao Miên (Campuchia), Xứ ủy Ai Lao (Lào).

Xứ ủy Nam Kỳ là một trong những Xứ ủy hoạt động có nhiều kết quả. Trải qua các thời kỳ hoạt động, các tổ chức đảng và đảng viên thường xuyên bị thực dân Pháp truy lùng gắt gao, bắt bớ, tan rã rồi lại lập lại. Ý chí của những người cộng sản Nam Bộ là tiến hành cách mạng đến cùng, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Ngày 23-11-1940, nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, theo chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ, "tiền trảm hậu tấu", trước khi báo cáo với Trung ương. Cả vùng nông thôn Nam Kỳ rung chuyển trước sức nổi dậy tiến công như vũ bão của quần chúng cách mạng. Nhiều đồn, bốt của địch bị quân khởi nghĩa đánh chiếm. Chính quyền thực dân và tay sai ở một số xã và quận hoang mang, tan rã. Chính quyền cách mạng được thành lập ở một số nơi. Khí thế dâng lên ngút trời. Rõ ràng cách mạng thực sự là ngày hội của quần chúng. Cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện trong các cuộc biểu tình thị uy và ở những nơi đã thành lập chính quyền cách mạng. Những người khởi nghĩa chiến đấu cực kỳ dũng cảm. Nhưng vì chưa có điều kiện chủ quan và khách quan, các thế lực phản động chui vào hàng ngũ cách mạng phá hoại, cuộc khởi nghĩa cuối cùng bị thất bại. Quân đội Pháp ở Đông Dương điều động lục quân Pháp và quân tay sai của Pháp đến đàn áp rất dã man. Chúng đã dùng 20 máy bay ném bom xuống các vùng có quần chúng nổi dậy. Nhiều làng bị đốt, hàng vạn người bị chết. Tại Bà Điểm, Hóc Môn, tên cò Bêtaiơ như diên như dại, gặp ai giết người ấy. Số người bị bắt quá đông, địch dùng dây thép xuyên qua bàn tay hoặc bắp chân xâu thành từng chuỗi rồi quẳng xuống sông, xuống biển. Theo báo cáo chính trị, tháng 12-1940, của Thống đốc Nam Kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux, chỉ tính ở 4 tỉnh: Gia Định, Mỹ Tho, Cần Thơ, Long Xuyên, chúng đã thực hiện gần 6 nghìn vụ bắt người. Thực dân Pháp đã xử tử, đưa đi đày Côn Đảo hoặc giam trong các nhà tù khác hàng vạn chiến sĩ cách mạng. Những cán bộ chủ chốt, lãnh đạo cách mạng Nam Kỳ đều bị bắt. Tối 22-11-1940, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ (1940) Tạ Uyên bị bắt. Ngày 28-8-1941, tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định, Tổng Bí thư Hà Huy Tập, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ , Ủy viên Trung ương Đảng Phan Đăng Lưu, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ (1937) Võ Văn Tần, Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều chiến sĩ cách mạng trung kiên khác đã bị Pháp xử bắn.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, nhưng đã biểu lộ rõ lòng căm thù sâu sắc của nhân dân ta đối với thực dân, đế quốc và tinh thần đấu tranh vô cùng dũng cảm của quần chúng cách mạng. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ cùng với cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong cách mạng tháng Tám năm 1945.

2. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, các tổ chức đảng trong Xứ ủy Nam Kỳ và bản thân Xứ ủy Nam Kỳ bị tan rã. Nhưng với tinh thần cộng sản kiên cường, những đảng viên ở Nam Kỳ còn sống sót đã ra sức khôi phục lại tổ chức đảng. Tháng 10-1943, tại một địa điểm ở Chợ Gạo, Mỹ Tho, những đảng viên còn sống sót họp Hội nghị để lập lại Xứ ủy Nam Kỳ. Đây là cuộc họp có ý nghĩa lịch sử, khẳng định ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng của những người cộng sản Nam Bộ.

Sau cuộc họp, các đảng viên phân công nhau đi xuống gây dựng lại cơ sở và khôi phục các tổ chức đảng ở Mỹ Tho, Cần Thơ, Bến Tre, Tân An, Long Xuyên, Sóc Trăng, Bạc Liêu,... Phong trào cách mạng ở Nam Bộ dần dần được khôi phục.

Hội nghị Trung ương 8, khóa I, họp từ ngày 11 đến ngày 19-5-1941, tại Cao Bằng, do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại diện Quốc tế Cộng sản, chủ trì, đưa ra chủ trương tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và quyết định tổng khởi nghĩa võ trang, thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, gọi tắt nữa là Việt Minh - thành lập ngày 19-5-1941). Chủ trương này đã dẫn đến Cách mạng tháng Tám năm 1945. Chủ trương này cũng đã được Xứ ủy Nam Kỳ quán triệt.

Cục diện chính trị thế giới lúc này biến chuyển hết sức mau lẹ. Ngày 8-5-1945, Liên Xô chiến thắng phát xít Đức Hítle, buộc Hítle phải đầu hàng không điều kiện. Ngày 13-8-1945, Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Khi Nhật chiếm Đông Dương, thì Nhật lấn át Pháp, nắm quyền thống trị Đông Dương và khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, nhân dân ta giành chính quyền từ tay Nhật. Nhưng khi quân Nhật tan rã, thì quân Pháp được quân Anh tiếp sức, ngóc đầu dậy, trở lại xâm chiếm nước ta. Ngày 22-9-1945, quân Pháp nổ súng đánh chiếm trở lại Sài Gòn, rồi dần dần lấn chiếm các tỉnh của Nam Bộ... Người Pháp tại Nam Bộ và Đông Dương lúc này có Pháp Đờcu (Toàn quyền Đông Dương) và Pháp Đờgôn (Tướng Đờgôn, sau là Tổng thống Đờgôn). Pháp Đờcu chiếm Đông Dương từ trước, nay ngóc đầu dậy. Còn Pháp Đờgôn là Pháp Chính phủ lưu vong, từ Angiêri trở về Pari nắm quyền. Pháp Đờgôn là những người Pháp không những chống phe Trục (Đức, Nhật), mà còn chống cả phátxít Pháp, bọn Pháp gian phản quốc, tay sai của phe Trục nữa. Những người Pháp này tán thành chủ trương của tướng Đờgôn, Chủ tịch Ủy ban giải phóng nước Pháp. Tuy Pháp Đờgôn làm ra vẻ ủng hộ phong trào giải phóng Việt Nam, nhưng kỳ thực, cả Pháp Đờcu lẫn Pháp Đờgôn đều có âm mưu chiếm lại Đông Dương. Chủ trương của Trung ương lúc này là tạm thời liên minh có điều kiện với Pháp Đờgôn để đánh Nhật, vì Đông Dương đã thành thuộc địa của Nhật. Tuy liên minh với Pháp Đờgôn để chống Nhật xâm lược Đông Dương, nhưng Trung ương Đảng vẫn coi chừng "cái bả" Đờgôn. Điều này đã được tác giả C.G.P (Tổng Bí thư Trường Chinh) giải thích rõ trong bài "Phải coi chừng cái bả Đờgôn" (báo Cờ giải phóng, số 10, ngày 28-1-1945). Còn Pháp Đờcu là Pháp phát xít trăm phần trăm, cũng như ai còn lạ gì bọn Pêtanh, Lavan là Pháp gian phản quốc. Năm 1940, Nhật kéo quân vào Lạng Sơn. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương Đờcu hoảng sợ, liền quy lạy phátxít Nhật, ra mặt làm tay sai cho phe Trục, thẳng tay vơ vét của cải của nhân dân Đông Dương, nộp cho phátxít Nhật và phát xít Đức, thẳng tay đàn áp cách mạng Đông Dương. Vấn đề này đã được Tổng Bí thư Trường Chinh giải thích rõ trong bài "Bọn Đờcu muốn gì?" (đăng báo Cờ giải phóng, số 9, ngày 25-12-1944). Vì vậy, xét về bản chất, cả Pháp Đờcu lẫn Pháp Đờgôn đều là phản động với nhân dân Đông Dương, đều muốn thống trị Đông Dương, tuy mức độ phản động có khác nhau, cho nên cần phải tranh thủ những thế lực có thể còn tranh thủ và cô lập những thế lực cần phải cô lập. Đó là sách lược của Đảng trong lúc này.

Từ sau cuộc đảo chính Nhật ngày 9-3-1945, phong trào cách mạng phục hồi rất nhanh trong cả nước, trong đó có Nam Bộ. Ngày 19-8-1945, Tổng bộ Việt Minh hạ lệnh khởi nghĩa toàn quốc. Lập tức các đội quân giải phóng được tung ra mặt trận. Quân Nhật tan rã từng mảng. Thực ra, cuộc đấu tranh khởi nghĩa của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đã bắt đầu từ ngày 9-3-1945, khi Nhật nổ súng đảo chính Pháp, và trước đấy nữa, tháng 10-1944, nhân dân huyện Đình Cả nổ súng bắn vào quân Pháp. Cũng trong dịp này, anh em tù chính trị ở Nghĩa Lộ, Yên Bái, Ba Tơ, Quảng Ngãi nổi lên phá ngục. Dân Mường Lạng Sơn, Hòa Bình, dân Mèo ở Sơn La cũng bắn nhau với Nhật. Đi đôi với những hành động quân sự, là cuộc tổng biểu tình thị uy võ trang toàn quốc, trong các ngày 17,18,19-8-1945. Từ ngày 9-3-1945 đến ngày 19-8-1945, Đảng đã lãnh đạo cao trào kháng Nhật, cứu nước có tính chất thật khởi nghĩa. Đó là Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đây thực sự là cuộc cách mạng, chứ không phải cuộc đảo chính như một số bài viết đăng báo.

Trong quá trình phục hồi, phong trào đã hình thành hai nhóm cộng sản: "Tiền phong" và "Giải phóng". Có người gọi đây là Xứ ủy Tiền phong và Xứ ủy Giải phóng. Đây cũng là tên của hai tờ báo "Tiền phong" và "Giải phóng". Báo Tiền phong là của nhóm Tiền phong; báo Giải phóng là của nhóm Giải phóng. Trong khi đó, vẫn là Xứ ủy lâm thời Nam Kỳ và Mặt trận Việt Minh ở Nam Bộ cùng các đoàn thể cứu quốc. Nhóm Tiền phong tổ chức ra Thanh niên tiền phong.

Trước cuộc Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945, những người cộng sản ở Hậu Giang ra báo "Tiền phong", đề xướng khẩu hiệu "Kháng Nhật kiến quốc", chủ trương rút khẩu hiệu chống Pháp trước khi nổ ra cuộc đảo chính của Nhật và sau ngày đó, lại chủ trương lợi dụng Nhật để giành chính quyền. Trong khi đó, những người cộng sản ở Tiền Giang viết trong tờ "Giải phóng", vẫn giữ khẩu hiệu "Đánh đuổi Pháp - Nhật" sau khi Nhật đã hoàn thành cuộc đảo chính Pháp và Pháp không có quyền hành gì ở Đông Dương. Đây chính là sự khác nhau về nhận thức của hai nhóm cộng sản ở Nam Kỳ lúc ấy. Về sự kiện này, Tổng Bí thư Trường Chinh đã phân tích trong bài "Hãy kíp đi vào đường lối" (đăng bào Cờ giải phóng, số 15, ngày 17-7-1945). Theo nhận định của Tổng Bí thư Trường Chinh, thì cả hai khẩu hiệu "Kháng Nhật kiến quốc" và "Đánh đuổi Pháp - Nhật" đều không đúng, vì xét trên thực tế, trước cuộc Nhật đảo chính Pháp, bộ máy cai trị của Pháp ở Đông Dương, chưa đổ. Ách của Pháp vẫn trực tiếp đè lên vai nhân dân Đông Dương. Một số người Pháp ở Đông Dương, tuy làm ra vẻ theo phái Pháp Đờgôn ở Đông Dương, nhưng trên thực tế, họ vẫn thi hành chính sách phát xít và kỳ thực, vẫn làm tay sai cho Nhật, dù chúng muốn hay không muốn. Lúc ấy đề ra khẩu hiệu "Kháng Nhật kiến quốc", bỏ khẩu hiệu chống Pháp, thì có khác gì thừa nhận quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương. Và tại sao lại "kiến quốc"? Nước ta mất đã lấy lại được đâu mà "kiến quốc" mà xây dựng lại nước? Trái lại, sau cuộc đảo chính mà còn lắp mãi khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật - Pháp" (hay "Đánh đuổi phátxít Nhật - Pháp!") như báo Giải phóng đã viết, thì cũng không đúng nốt. Vì sao? Vì sau cuộc đảo chính, quyền thống trị của Pháp đã bị Nhật lật hẳn. Quân Pháp ở Đông Dương (cả Pháp Đờcu và Pháp Đờgôn), đều bị Nhật dàn dựng lên. "Như thế mà còn hô đánh đổ Pháp, thì có khác gì đánh vuốt đuôi một kẻ đã ngã, có khác gì chém dao xuống nước hay đẩy một cái cửa bỏ ngỏ"(1). Tổng Bí thư Trường Chinh giải thích rằng, trước kia, có khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật - Pháp", đồng thời, vẫn liên minh với những người chống phe Trục. Đó không có gì mâu thuẫn hết. Vì đánh đuổi ách thống trị Nhật - Pháp hay ách thống trị phátxít Nhật - Pháp, chứ không phải đánh tất cả các hạng người Pháp. Nhưng nếu chiều hướng Pháp Đờgôn trở thành trực tiếp xâm lược Đông Dương, thì lúc ấy, ai cấm ta đề ra khẩu hiệu chống Pháp. Tổng Bí thư Trường Chinh viết:

"Tóm lại, khẩu hiệu cách mạng, nhất là khẩu hiệu chiến lược, phải đặt một cách khách quan, căn cứ vào sự phân tích khoa học tình hình trong nước và ngoài nước, căn cứ vào sự nhận định sáng suốt kẻ thù và các hạng đồng minh xa gần và cố nhiên phải thích hợp với nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn"(2).

Có thể nói, cả nhóm Tiền phong và nhóm Giải phóng đều có tinh thần yêu nước và cứu nước. Tuy nhiên, trong nhận thức và phương pháp hoạt động của mỗi nhóm có khác nhau. Đến tháng 8 và tháng 9 1945, cả hai nhóm Tiền phong và Giải phóng đã thống nhất lại trong Xứ ủy Nam Kỳ.

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám nổ ra trong cả nước. Tại Sài Gòn, theo chủ trương của Xứ ủy Nam Kỳ, từ ngày 20-8-1945, cờ đỏ sao vàng đã xuất hiện công khai. Hàng vạn tờ truyền đơn của Việt Minh được tung ra khắp thành phố. Ngày 23-8-1945, Xứ ủy họp ở Chợ Đệm quyết định khởi nghĩa chiếm Sài Gòn và các tỉnh vào ngày 25-8-1945. Từ đêm 24-8-1945, các đội "công đoàn xung phong", "thanh niên xung phong" của Sài Gòn - Chợ Lớn được lệnh tập trung và từng đoàn công nhân, nông dân, thanh niên mang theo giáo mác, tầm vông, từ các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Biên Hòa, Thủ Dầu Một,... bằng mọi phương tiện, rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng ngày 25-8-1945, các lực lượng khởi nghĩa đã chiếm Sở Công an, Sở Cảnh sát, Nhà ga, Bưu điện, Nhà đèn, các quận, bót. Riêng tại cơ sở mật thám Catina, quân địch chống cự một cách yếu ớt và bị các lực lượng khởi nghĩa đánh tan. Hơn 1 triệu quần chúng Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh lân cận kéo vào đã biểu tình tuần hành, hô khẩu hiệu: "Việt Nam hoàn toàn độc lập!", "Tất cả chính quyền về tay Việt Minh"... Cờ đỏ sao vàng phất phới bay trên cột cờ Thủ Ngữ và trên các công sở. Quần chúng như một biển người kéo đến dự mít tinh hoan nghênh Ủy ban Nhân dân Nam Bộ. Quân Nhật hoàn toàn tê liệt, không dám chống cự. Cuộc khởi nghĩa thành công nhanh chóng.

Như thế là, về cơ bản, đến ngày 25-8-1945, quyền thống trị của thực dân, đế quốc đã được xây dựng một trăm năm và chế độ quân chủ tồn tại hàng nghìn năm ở nước ta đã bị nhân dân ta lật đổ. Lần đầu tiên, chính quyền cả nước thuộc về tay nhân dân.

Ngày 2-9-1945, trong khi tại Hà Nội, Lễ độc lập được tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thì tại Nam Bộ Phủ ở Sài Gòn cũng tổ chức mít tinh lớn, mừng ngày độc lập.

Tháng 8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh đã phái Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng Hoàng Quốc Việt (Hạ Bá Cang) vào Nam Kỳ để kiểm tra tình hình, cùng với Xứ ủy Nam Kỳ củng cố và phát triển tổ chức, đưa phong trào cách mạng ở Nam Bộ tiếp tục tiến lên trong hoàn cảnh mới.

3. Sau khi được khôi phục, Xứ ủy Nam Kỳ hoạt động trong guồng máy của toàn Đảng, đã làm được một số việc có hiệu quả:

Một là: Xứ ủy Nam Kỳ đã ra sức khôi phục lại các tổ chức đảng đã bị nhà cầm quyền Pháp phá vỡ trước đó, đưa các tổ chức đảng trở lại sinh hoạt bình thường, mở thêm các tổ chức mới, kết nạp đảng viên mới; đã tập hợp được các đảng viên sau khi bị địch khủng bố; đào tạo cán bộ từ phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng.

Hai là: Xứ ủy củng cố tổ chức đảng đi đôi với việc củng cố các tổ chức chính quyền cách mạng, đặc biệt là chính quyền cấp xã. Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ lúc đầu là ông Trần Văn Giàu, sau đó, chức vụ này do ông Phạm Văn Bạch (Nguyễn Văn Liên) đảm nhiệm từ ngày 7-9-1945. Chủ trương của Xứ ủy là chọn một số nhân sĩ, trí thức có uy tín, có khả năng đối nội lẫn đối ngoại, chưa phải đảng viên cộng sản, tham gia Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Tiến sĩ luật Phạm Văn Bạch phù hợp với vị trí Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ lúc này. Được tổ chức lại, sắp xếp lại, chính quyền cách mạng các cấp hoạt động có hiệu quả, theo hướng phục vụ nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự ở địa phương.

Ba là: Xứ ủy đã củng cố và phát triển mạnh các tổ chức quần chúng. Lúc này, ở Nam Bộ, ngoài tổ chức Việt Minh, còn có các đoàn thể cứu quốc hoạt động trong tổ chức Việt Minh. Nhiều quần chúng ưu tú đã gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Nhiều hội viên Thanh niên tiền phong tình nguyện gia nhập Việt Minh. Xứ ủy đã đào tạo được nhiều cán bộ cho các tổ chức quần chúng. Nhờ có sự lớn mạnh của các tổ chức quần chúng yêu nước, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy, phong trào cách mạng ở Nam Bộ lớn mạnh từng ngày, từng giờ. Khi Nam Bộ bước vào cuộc chiến đấu chống Pháp xâm lược trở lại, thì chính các lực lượng yêu nước, cứu nước đã xông ra chiến trường chiến đấu và chiến thắng quân xâm lược.

Bốn là: Xứ ủy đã lãnh đạo thống nhất các lực lượng võ trang Nam Bộ. Chủ trương này của Xứ ủy Nam Kỳ đã dẫn đến Hội nghị Xứ ủy mở rộng, họp tại Thiên Hộ, huyện Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho, ngày 25-10-1945, bàn việc thống nhất các lực lượng võ trang Nam Bộ và củng cố các tổ chức đảng trong các lực lượng võ trang Nam Bộ. Có thể nói, lực lượng võ trang Nam Bộ lúc này là ô hợp. Ngoài những đơn vị võ trang cách mạng, còn có các Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam, Đệ tứ Sư đoàn và lực lượng võ trang Bình xuyên. Sau cuộc họp của Xứ ủy, các lực lượng võ trang Nam Bộ đã được từng bước thống nhất lại.

Hoạt động của Xứ ủy Nam Kỳ trong Cách mạng tháng Tám đã góp phần to lớn vào việc xây dựng Đảng, xây dựng phong trào quần chúng yêu nước và cách mạng ở Nam Bộ, xây dựng các đoàn thể cứu quốc và xây dựng các lực lượng võ trang cách mạng ở Nam Bộ. Lịch sử mãi mãi ghi nhận những đóng góp to lớn của Xứ ủy Nam Bộ trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 và của Trung ương Cục miền Nam qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước.

(Bài đăng trong Tạp chí Thông tin Đối ngoại, số 8-2015)

***** 
Chú thích:
1,2. Trường Chinh: Hãy kíp đi vào đường lối, báo "Cờ giải phóng", số 15, ngày 17-7-1945.

NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ KHẲNG ĐỊNH NHÀ NƯỚC LÝ – TRẦN LÀ NHÀ NƯỚC QUÂN CHỦ THÂN DÂN


Ảnh internet

Chính sách thân dân có từ thời Lý - Trần (1009 - 1400). Đó là tư tưởng truyền thống của những nhà lãnh đạo nhà nước và quân đội thời bấy giờ, khi chính quyền còn có vai trò lịch sử tích cực trong việc tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước. Mặc dù tư tưởng thân dân thời kỳ này còn bị hạn chế bởi nhận thức của cá nhân người cầm quyền, của điều kiện lịch sử và ý thức hệ phong kiến, song nó đã góp phần tạo nên mô hình nhà nước quân chủ thân dân thời Lý – Trần - một trong ba mô hình nhà nước quân chủ tiêu biểu trong lịch sử trung đại Việt Nam.
Vậy căn cứ vào những luận điểm nào để khẳng định nhà nước Lý – Trần là nhà nước quân chủ thân dân? Đó là nội dung chủ yếu mà chúng tôi muốn làm sáng tỏ trong khuôn khổ bài viết nhỏ này.

Thứ nhất trên bình diện tư tưởng, triết lý thân dân là một dòng chảy liên tục và có hệ thống trong tư tưởng chính trị thời Lý – Trần. Chúng ta biết rằng, ở Đại Việt thời Lý, tư tưởng dân bản, thân dân được thể hiện khá đâm nét trong đời sống xã hội. Trong hoàn cảnh mà sự phân tầng xã hội còn khá mờ nhạt, các vua Lý đều nói tới người dân qua những cách diễn đạt khác nhau như “thuận lòng dân” (Lý Thái Tổ), “yêu dân như con” (Lý Thánh Tông). Quan hệ vua quan – thần dân còn khá gần gũi. Sử sách ghi lại rằng năm 1012, vua Lý Thái Tổ cho xây cung Long Đức ở ngoài thành cho Hoàng thái tử Khai Thiên Vương Phật Mã ở, “ý cho thái tử hiểu hết mọi việc của dân”. Nhà vua cũng thi hành chính sách thân dân: năm 1013 định lại các lệ thuế, từ thuế ruộng đất ao hồ đến thuế bãi dâu, các thuế sản vật …và nhiều năm xá thuế cho nhân dân, được chính sử đánh giá là “khoan thứ nhân từ, tử tế, hòa nhã, có lượng đế vương”. Năm 1040, vua Lý Thái Tông dạy cung nữ dệt gấm vóc, cho công chúa cùng cung nữ trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Dân chúng kinh thành Thăng Long trong những ngày hội (như hội đền Quảng Chiếu) đã được vào tận Đoan Môn của Cấm Thành tham dự; họ cũng được phép tới thềm điện Long Trì đánh chuông kêu cầu oan ức. Vào dịp đầu năm, vua Lý Anh Tông đã ra tận ruộng để cày ruộng tịch điền cùng với nhân dân. Trong bài Lộ bố văn khi chinh phạt Tống, Lý Thường Kiệt đã trịnh trọng tuyên bố một nguyên tắc dân bản: “Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục, đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”. Còn thiền tăng Viên Thông thì nêu lên nội dung cụ thể của quan điểm thân dân là: “Muốn yên dân thì phải tôn trọng những người dưới”. Như vậy, ngay từ thời Lý, việc chăm lo đời sống nhân dân, quan tâm đến nguyện vọng của nhân dân đã được xem là công việc hệ trọng nhất của việc trị nước.
Trong thời Trần, dòng tư tưởng thân dân, trọng dân vẫn được tiếp tục. Các vua đều tự coi mình cha mẹ của dân, thi hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng. Vua Trần Thái Tông khi đang đêm bỏ kinh thành lên núi Yên Tử xuất gia tu hành đã khẳng định: “Trẫm muốn ra ngoài chơi để được nghe tiếng nói của dân, xem xét lòng dân, cho biết tình trạng khó khăn của dân”. Điều này nói lên rằng, các vua thời Trần đã có những quan hệ khá gần gũi với dân chúng, chứ không chỉ ngồi yên vị ở ngai vàng như những triều đại sau này. Sử cũ chép rằng, các vua thường xuyên đi xuống các làng mạc địa phương thăm hỏi việc đắp đê, gặt lúa, đánh cá, dự các lễ hội đấu vật, đua thuyền hoặc du hành đi chơi phố. Một sự kiện để lại dấu ấn đậm nét của tinh thần thân dân là việc Thượng hoàng Trần Thánh Tông mời các bô lão trong nước đến dự Hội nghị Diên Hồng, hỏi ý kiến về việc đánh giặc Nguyên Mông. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hoài Vănthì đây thực sự là một “quốc dân đại hội”1 của Đại Việt thời trung đại.
Mặt khác, trong thời kỳ này, nhân dân được xem như là cơ sở để tiến hành những cuộc chiến tranh bảo vệ độc lập. Bởi vậy, Trần Hưng Đạo cho rằng phải khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, bền rễ, coi đó là thượng sách để giữ nước. Điều này có ý nghĩa biểu thị sự quan tâm của nhà nước đối với sản xuất và đời sống của nhân dân để xây dựng một nền thái bình thịnh trị lâu dài.
Sự hiện diện một cách rõ rệt và có hệ thống của triết lý thân dân trong lĩnh vực tư tưởng của giai cấp cầm quyền chính là cơ sở để nhà nước Lý - Trần tiến hành hàng loạt các chính sách nhằm hiện thực hóa triết lý đó trong đời sống xã hội, mang lại sức mạnh to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ hai, Phật giáo là một cơ sở quan trọng cấu thành mô hình nhà nước quân chủ thân dân nói chung, thời Lý - Trần nói riêng. Nhà nước quân chủ Việt Nam lúc mới ra đời là một nhà nước cai trị bằng bạo lực. Nhưng nếu chỉ có quân sự và bạo lực thì sẽ không thu phục được lòng dân, bị nhân dân oán thán. Bởi vậy, các vị vua Lý, Trần đã tìm đến Phật giáo để thiết lập một thế cân bằng mới có lợi cho việc cai trị của mình. Chúng ta biết rằng lịch sử tư tưởng Việt Nam đã ghi nhận sự tồn tại lâu dài của hiện tượng “tam giáo đồng nguyên”. Trong thời Lý - Trần, “tam giáo đồng nguyên” là sự cùng tồn tại hòa bình và ảnh hưởng lẫn nhau (bổ sung cho nhau và đấu tranh với nhau) của ba tôn giáo Phật, Đạo, Nho. Mặc dù cuối thời Trần, Nho giáo đã thắng thế nhưng trong suốt 4 thế kỷ trị vì của hai triều đại này, Phật giáo luôn là tôn giáo chiếm vị trí độc tôn. Với tư cách là “quốc giáo”, Phật giáo đã có vai trò quan trọng và có ảnh hưởng chi phối đến tư tưởng chính trị của các vua thời Lý và nửa đầu thời Trần. Đặc biệt, vua Lý Thái Tổ - vị vua sáng lập ra vương triều Lý - vốn xuất thân từ Phật giáo và nhờ thế lực của Phật giáo mà lên ngôi vua nên rất tôn sùng đạo Phật và lấy tôn giáo này làm chỗ dựa tinh thần cho vương triều. Vai trò của Phật giáo trong nhà nước quân chủ thân dân thể hiện ở các khía cạnh sau:
* Tạo ra sự cân bằng tư tưởng trong xã hội:
Xét một cách khái quát, cả ba tôn giáo Phật, Đạo, Nho đều mang tính chất nhân văn, lấy việc giải thoát con người, đem lại hạnh phúc cho con người là mục đích cuối cùng. Phật giáo còn nhấn mạnh tư tưởng nhân từ bác ái và tinh thần “hiếu sinh” (tôn trọng cuộc sống). Trong thời đại mà Phật giáo phát triển thịnh đạt nhất trong xã hội, các triều đại Lý - Trần đều thấm nhuần dòng tư tưởng chủ đạo trên và áp dụng vào thực tiễn trị nước mà cụ thể là chính sách thân dân và tư tưởng nhân văn khai phóng. Theo đó, chủ trương của nhà nước không nên can thiệp, hoặc can thiệp càng ít càng tốt vào cuộc sống tự tại của người dân, để họ tự lo liệu giải quyết. Bởi vậy, đã tạo nên dòng gắn kết, sự cân bằng giữa thói ứng xử bạo lực của nhà nước quân chủ với tư tưởng dân chủ của làng xã. Có thể khẳng định rằng Phật giáo chính là nhịp cầu tâm linh tin cậy nối nhà nước với làng xã, với dân chúng, giúp an dân, xây dựng cục diện thái bình trong xã hội.
* Tạo ra một trung tâm về giáo dục ngay tại các nhà chùa Phật giáo:
Kể từ khi bước vào kỷ nguyên độc lập, những người trí thức đầu tiên chính là tầng lớp sư sãi. Họ không dừng lại ở cương vị là người tu hành thoát tục, mà còn tham gia cả vào những hoạt động nội trị và ngoại giao, trong đó có hoạt động giáo dục. Mặc dù đến thời Lý, nền giáo dục Nho học đã xuất hiện trên đất nước ta nhưng các trường học Nho giáo chưa đóng vai trò quan trọng mà nhà chùa mới là nơi dạy học, truyền bá văn hóa và đào tạo tầng lớp trí thức. Cùng với việc các vua Lý, Trần và những quý tộc, quan chức cao cấp khác bỏ tiền của xây dựng chùa chiền ở khắp nơi, nhà chùa đã “trở thành một thế lực kinh tế, chính trị, văn hóa lớn trong xã hội”. Bởi vậy, tư tưởng Phật giáo lại càng có điều kiện lan tỏa và thấm sâu vào đời sống, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa với hình tượng Bồ Tát - một hình tượng của từ bi, hỉ xả để cho quần chúng cầu được ước thấy và thỏa nguyện những khát vọng về mặt tinh thần. Phật giáo thời Lý - Trần đã phát triển mạnh mẽ trong sự gắn bó với lợi ích của người dân và có khi là với vận mạng của dân tộc.
Tạo ra truyền thống tôn giáo tham gia vào chính sự:
Trong mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý - Trần, việc cai trị không thực sự chuyên nghiệp như mô hình nhà nước quân chủ quan liêu sau này. Điều này thể hiện ở việc dùng sư sãi, tôn thất nắm chính quyền, đào tạo quan lại cai trị không bài bản. Đặc biệt là ở việc dùng sư sãi trong bộ máy cai trị. Ở thời Lý – Trần, tầng lớp trí thức là sư sãi giữ vị trí quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước với vai trò là cố vấn chính trị cao cấp của nhà vua, là chính trị gia bên cạnh các tướng lĩnh của triều đình. Sư Vạn Hạnh có vai trò to lớn trong việc thành lập vương triều Lý; sư Đà Bảo được Lý Thái Tổ mời đến kinh đô tham gia chính sự. Những nhà sư có tài năng và uy tín lớn như sư Viên Thông, sư Thông Biện còn được phong làm quốc sư, có đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước.
Như vậy, thời kỳ quân chủ Việt Nam lúc mới bắt đầu tuy rất bạo lực nhưng đã có cơ sở để thân dân do sự xuất hiện của yếu tố Phật giáo (chủ yếu là Phật giáo Đại thừa). Phật giáo đã có vai trò quan trọng đối với nền chính trị quân chủ Lý - Trần, góp phần tạo nên một cục diện thái bình thịnh trị trong mấy trăm năm tồn tại của hai triều đại này.
Tuy nhiên, Phật giáo không bao giờ có thể dùng để điều hành một quốc gia cũng như hoạch định các đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại, sắp đặt cấp bậc tôn ti trật tự trong xã hội nên đến cuối đời Trần, Nho giáo đã thắng thế và trở thành một ý thức hệ thống trị xã hội. Sự thắng thế của Nho giáo là một trong những cột mốc đánh dấu sự ra đời của mô hình nhà nước quân chủ quan liêu, thay thế cho mô hình nhà nước quân chủ thân dân lúc này đã chấm dứt sứ mệnh lịch sử của mình trên vũ đài chính trị.
Thứ ba, về mặt tổ chức cai trị, tính chất thân dân của nhà nước Lý – Trần thể hiện ở chỗ đã tìm ra một thế thỏa thuận giữa cộng đồng làng xã với nhà nước quân chủ.
Chúng ta biết rằng trong lịch sử, làng Việt Nam luôn có xu hướng biến thành cộng đồng tự trị, tự quản; còn nhà nước luôn có xu hướng can thiệp sâu vào làng. Tuy nhiên, nhà nước Lý – Trần vẫn duy trì một thiết chế chính quyền tự trị, tự quản trong các làng xã, ít có sự can thiệp của nhà nước (quyền lực của nhà nước đến cổng làng, sau cổng làng là làng xã tự trị). Mối quan hệ làng - nước nhờ đó được dung hòa.
Quan điểm tự do chủ nghĩa chủ trương nhà nước can thiệp càng ít càng tốt vào đời sống của dân chúng cũng được nhà nước Lý – Trần áp dụng vào lĩnh vực kinh tế.
Nhà Lý tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất của cộng đồng làng xã. Theo đó, nhà nước không thu thuế theo từng hộ dân mà coi mỗi cộng đồng làng xã là một tập thể lớn (hoặc nhỏ) để thu thuế lúa gạo theo hộ dân. Người được ban thái ấp sẽ thu thuế các làng, rồi nộp một phần cho nhà nước nên họ thực sự là chủ của dân chứ không phải là chủ ruộng đất. Dân chúng chủ yếu cày ruộng theo quy mô làng xã.
Nhà Trần có chế độ thái ấp, điền trang là một hình thức sở hữu đặc biệt của tầng lớp quý tộc quan liêu, có đặc quyền đặc lợi. Theo sử sách ghi lại thì thái ấp là ruộng do nhà vua ban cấp cho các quý tộc và triều thần có công. Trên danh nghĩa, ruộng đất thái ấp thuộc quyền sở hữu của nhà nước, triều đình có quyền lấy của người này ban cấp cho người khác. Quý tộc có quyền sử dụng và hưởng hoa lợi về đất đai và một phần về cư dân trên đó, như thu tô thuế, xây dựng phủ đệ, lập các đội quân vương hầu gia đồng. Thời trần, có những thái ấp của Trần Liễu (Đông Triều, Quảng Ninh), Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam), Trần Khát Chân ở Kẻ Mơ (Hà Nội)… Do tính chất hạn chế về quyền chiếm dụng ruộng đất nên thái ấp không có khả năng làm phát triển các yếu tố cát cứ chống lại chính quyền trung ương.
Điền trang là những trang trại lớn của các quý tộc đời Trần, do quý tộc trực tiếp quản lý, sử dụng sức lao động của gia nô, nô tì; có quyền thừa kế. Đó là bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu phong kiến lớn, tư nhân. Các điền trang được nhắc đến trong lịch sử là của Trần Khánh Dư (Chí Linh, Hải Dương), Trần Quốc Khang (Diễn Châu, Nghệ An)…Chế độ điền trang phát triển mạnh mẽ, hàm chứa nhiều yếu tố và xu thế cát cứ.
Tuy nhiên, trong suốt hàng trăm năm tồn tại của mình, chế độ thái ấp, điền trang đã có những tác động lớn về mặt chính trị. Nó góp phần xây dựng một triều đình thống nhất, đoàn kết nội bộ, đoàn kết toàn dân, giữ vững nền độc lập dân tộc. Thực tế đã chứng minh rằng những chủ nhân của các thái ấp đã hoàn thành tốt vai trò của mình là những trụ cột trợ giúp triều đình và không bao giờ trở thành lãnh chúa địa phương như ở châu Âu cùng thời. Quan trọng hơn, đất phân phong cho các vương hầu quý tộc vẫn gắn với ruộng đất công làng xã, với nông dân. Các quý tộc vẫn nằm trong làng, không tách khỏi làng xã. Nhờ đó, nhà nước luôn duy trì được mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Thế cân bằng ổn định về kinh tế cũng được xác lập và duy trì giữa công hữu và tư hữu; giữa quyền lực, lợi ích của nhà nước với các đẳng cấp quý tộc quan liêu và khối bình dân làng xã. Tính chất thân dân của nhà nước quân chủ Lý – Trần có cơ sở từ chế độ này.
Cuối thời Trần, nền kinh tế của quý tộc Trần trên đà suy yếu. Chế độ sở hữu điền trang, thái ấp và hình thức kinh doanh của quý tộc Trần bóc lột nông nô, nô tì ngày càng nặng nề làm cho nền kinh tế bị suy yếu và ruộng đất công của làng xã bị lấn chiếm nghiêm trọng. Mâu thuẫn xã hội gia tăng làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của nông dân, nông nô, nô tì để trở thành nông dân tự do. Đây có thể coi là nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý – Trần. Năm 1397, Hồ Quý Ly đã thi hành phép hạn điền, hạn nô, đánh mạnh vào thế lực kinh tế của tầng lớp quý tộc Trần. Chế độ thái ấp, điền trang dần tan rã từ đó.
Thứ tư tính chất thân dân của nhà nước Lý – Trần còn thể hiện ở chính sách “ngụ binh ư nông”.
Chính sách “ngụ binh ư nông” (gửi binh ở nông) có từ thời nhà Lý, sau đó được tiếp tục duy trì và phát triển ở thời Trần. Chính sách này quy định cụ thể về chế độ binh dịch đối với tất cả đinh tráng và chế độ quân lính chia phiên về sản xuất2. Theo đó, tất cả hoàng nam đến tuổi trưởng thành (16 tuổi) đều phải đi lính. Để tập trung được đông đảo nhân lực trong nước cho sản xuất mà vẫn không ảnh hưởng đến việc xây dựng quân đội thường trực, các triều Lý, Trần đều thực hiện chia phiên cho quân lính về làm ruộng. Theo các nàh nghiên cứu, thời Lý – Trần chỉ có cấm quân là thường xuyên tại ngũ bảo vệ nhà vua và kinh thành, còn lại đều chia phiên về nà cày cấy hoặc làm các công việc khác. Cứ thế cắt lượt thay nhau, khiến ai nấy hàng năm đều luân phiên tại ngũ canh phòng và luyện tập một thời gian, còn lại về sản xuất. Chính sách tiến bộ này vừa đáp ứng quyền lợi của giai cấp nông dân, tăng thêm của cải cho xã hội, vừa góp phần giảm bớt chi phí nuôi quân, làm cho một nước nhỏ như Đại Việt luôn có đủ quân đội thường trực để đương đầu với kẻ thù trong cuộc đấu tranh giữ nước. Về chính trị, chính sách “ngụ binh ư nông” còn có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra một tâm thức tuân lệnh bề trên, tạo ra sợi dây gắn kết liên tục giữa thiết chế quyền lực nhà nước với nông dân làng xã. Nhà sử học Phan Huy Chú đánh giá “đây cũng là phép hay của đời cận cổ”3.
Từ những luận điểm trên, chúng ta có thể khẳng định rằng: Mô hình nhà nước Lý – Trần là mô hình nhà nước quân chủ thân dân có lịch sử tồn tại gần 4 thế kỷ trên đất nước ta. Mặc dù thực chất quan điểm và chính sách thân dân thời Lý – Trần có mục đích chính là điều chỉnh mối quan hệ nhà nước phong kiến với nhân dân, điều hoà mâu thuẫn giữa giai cấp địa chủ phong kiến với nhân dân lao động bị áp bức bóc lột nhưng nó vẫn góp phần đem lại một cục diện thái bình, no ấm, góp phần củng cố khối đoàn kết toàn dân, giữ vững nền độc lập dân tộc, phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Như vậy, trước khi bị mô hình nhà nước quân chủ quan liêu thời Lê sơ thay thế, mô hình nhà nước quân chủ thân dân thời Lý – Trần đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, tạo nên một giai đoạn hoàng kim với nhiều thành tựu vĩ đại trong lịch sử dân tộc.
------------
Chú thích:
* Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
1. TS Nguyễn Hoài Văn: Sự phát triển của tư tưởng chính trị Việt Nam thế kỷ X - XV, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 65.
2. Nguyễn Thế Vị: Nhân tố văn hoá trong truyền thống quân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 40.
3. Phan Huy Chú: Lịch triều Hiến chương loại chí, Nxb Khoa học xã hội, tr. 3,31.

LAO ĐỘNG VIỆT KHÓ CẠNH TRANH TRONG AEC VÌ YẾU NGOẠI NGỮ, CÔNG NGHỆ

So với các nước khác trong AEC như Philippies, Thái Lan, Malaysia, Singapore thì trình độ tiếng Anh của lao động Việt Nam còn rất hạn chế.

Lao động Việt khó cạnh tranh trong AEC vì yếu ngoại ngữ, công nghệ
Lao động Việt Nam cần phải nỗ lực để cạnh tranh với khu vực.

Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Doãn Mậu Diệp cho hay, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) dự báo, khi tham gia vào AEC thì số việc làm của Việt Nam đến năm 2025 có thể tăng 14,5%. Điều này có nghĩa, Việt Nam đang có hơn 53 triệu lao động và sẽ có thêm 14,5 triệu lao động khác tìm được việc làm vào năm 2025.

Theo thỏa thuận AEC, có 8 ngành nghề lao động trong các nước ASEAN được tư do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, gồm kế toán, kiến trúc sư, nha sỹ, bác sỹ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên du lịch. Ngoài ra, còn có nhân lực chất lượng cao (các chuyên gia, thợ lành nghề).

Tuy nhiên, thỏa thuận trên có tác động hai mặt đến Việt Nam. Tại hội thảo Thị trường lao động Việt Nam sau khi thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) ngày 13.1 ở Hà Nội, nhiều chuyên gia cũng phân tích rõ những cơ hội cũng như thách thức mà lao động Việt Nam phải đối mặt trong thời gian sắp tới.

Bà Hà Thị Minh Đức - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cho rằng, cơ hội mà người Việt Nam nhận được từ thỏa thuận trên là việc học tập, làm việc trong các môi trường chuyên nghiệp, tiên tiến của các nước trong AEC.

“Cơ hội này cũng thúc đẩy nguồn nhân lực, đặc biệt với giới trẻ. Qua đó tạo dựng tinh thần tự học tập, nâng cao trình độ tay nghề, và đặc biệt là ngoại ngữ - điều rất yếu của lao động Việt Nam khi vươn ra cạnh tranh với lao động quốc tế”, bà Đức nói.

Đó là về mặt tích cực, còn theo Thứ trưởng Doãn Mậu Diệp, mặt đáng lo ngại của Việt Nam chính là trình độ tay nghề của Việt Nam vẫn còn thấp.

“Tám ngành nghề được di chuyển chủ yếu cần trình độ kỹ thuật và tạo ra các vị trí việc làm tốt. Nếu lao động nước ngoài tràn ngập vào ở những vị trí trên, lao động Việt Nam có nguy cơ phải rời bỏ”, ông Diệp nói.

Bà Minh Đức cũng lo ngại rằng, Việt Nam là nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trong ASEAN, 10 năm nữa lực lượng lao động sẽ không còn dồi dào như hiện nay. Trong khi đó, năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 1/15 Singapore, khả năng sử dụng tiếng Anh của lao động Việt Nam chưa cao.

Theo kết quả khảo sát của người sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN thì các doanh nghiệp vẫn đang lo ngại tình trạng thiếu hụt lao động có tay nghề. 50% doanh nghiệp cho biết, người lao động phổ thông không có đủ những kỹ năng cần thiết cho doanh nghiệp.

Theo xếp hạng mới đây của ASEAN, Việt Nam chỉ được xếp vào nhóm 4 nước ở hàng cuối vì quy mô vốn, trình độ khoa học kỹ thuật và lao động thấp. Bên cạnh đó, lao động đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng có kỹ năng kiến thức vẫn còn khoảng cách so với nhu cầu của người sử dụng lao động cần.

Ông Simon Matthews Giám đốc của Manpower Group Việt Nam, Thái Lan và Trung Đông cũng cho rằng, hiện nay, việc di chuyển lao động trong khu vực chủ yếu là những lao động không có kỹ năng nhưng khi thành lập cộng đồng chung AEC, việc di chuyển lao động có kỹ năng sẽ tăng.

Vị chuyên gia này cũng khuyến cáo rằng, bản thân người lao động muốn hội nhập, di chuyển trong AEC cần chuẩn bị đủ các kỹ năng làm việc theo nhóm, ngoại ngữ, kỹ năng sử dụng máy vi tính thành thạo…

Đồng thời, khuyến cáo đối với nhà quản lý, khi thị trường lao động mở rộng hơn, nếu không có những chiến lược nhân sự bài bản, hợp lý, các doanh nghiệp sẽ khó giữ chân nguồn nhân lực cao dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám”.

“Con số 14,5 triệu việc làm cho lao động Việt Nam vào năm 2025 chỉ có thể đạt được nếu có được sự quản lý hợp lý và thực thi một cách hiệu quả. Việt Nam cần nhanh chóng triển khai là xây dựng chính sách và thể chế hỗ trợ sự phát triển toàn diện và công bằng” - vị chuyên gia này cho hay.

Trao đổi với báo điện tử Một Thế Giới, ông Lê Lương Minh - Tổng Thư ký ASEAN cho biết, hiện nay ASEAN đã thỏa thuận được 8 nhóm lao động ngành nghề có thể tự do di chuyển và cũng lập ra được cơ chế đăng ký để người lao động cảm thấy đủ tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu thì đăng ký. Đã có 2.000 lao động lành nghề đăng ký tham gia vào cơ chế này.

Ngoài chuyên môn, một vấn đề cần quan tâm là trình độ ngoại ngữ của lao động Việt Nam. Ngôn ngữ sử dụng phổ biến trong ASEAN là tiếng Anh. So với các nước khác trong AEC như Philippies, Thái Lan, Malaysia, Singapore thì trình độ tiếng Anh của lao động Việt Nam còn rất hạn chế.

Hoàng Long 

(Theo Một Thế Giới, ngày 14/1/2016)

NGƯỜI VIỆT NAM LẦN ĐẦU ĐI BẦU CỬ 70 NĂM TRƯỚC

Sáng 6/1/1946, người dân cả nước thức dậy sớm, ăn mặc chỉnh tề, tự tay cầm lá phiếu, thực hiện quyền công dân nước tự do độc lập.


Ngay khi nước nhà giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị tổ chức tổng tuyển cử càng sớm càng tốt để bầu ra Quốc hội. Cuộc bầu cử do công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên tiến hành, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, đảng phái. Ban đầu, cuộc tổng tuyển cử được ấn định vào ngày 23/12/1945, sau đó được lùi lại vào ngày 6/1/1946. Trong ảnh, nhân dân Hà Nội đón mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội tại Hà Nội ngày 5/1/1946. Trước ngày bầu cử, cử tri yêu cầu Chủ tịch Hồ Chí Minh miễn ứng cử và bầu làm Chủ tịch nước vĩnh viễn, nhưng Hồ Chủ tịch từ chối và muốn làm tròn nghĩa vụ của công dân một nước độc lập là đi bầu cử.


Các sắc lệnh quy định cách thức bầu cử, thời gian tổng tuyển cử liên tiếp được Chính phủ ban hành. Mỗi cử tri phải thân hành đi bầu, không được ủy quyền, cũng không được bầu bằng cách gửi thư. Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi đăng trên báo Quốc hội - tờ báo ra đời và hoạt động trong kỳ tổng tuyển cử đầu tiên. Công cuộc chuẩn bị cho bầu cử gấp rút từ trung ương đến địa phương. Các tờ báo Cứu quốc, Quốc hội liên tiếp đưa tin về tổng tuyển cử, danh sách, bình luận về các ứng viên. Tại địa phương, các ủy ban bầu cử được thành lập tới từng làng, xã.


Sáng 6/1/1946, không khí bầu cử len lỏi đến từng ngõ phố, hiện lên trên khuôn mặt mỗi người. Nhân dân nghỉ không bán hàng, không chạy chợ. Người lớn dậy sửa soạn đi làm bổn phận của một công dân, trẻ em đi cổ động tổng tuyển cử. Thiếu nhi phố Mai Hắc Đế (Hà Nội) cổ động trong ngày bầu cử đầu tiên của đất nước.


Nhân dân lao động ở Thủ đô cũng hòa vào không khí ngày bầu cử, treo cờ đỏ sao vàng, băng rôn cổ động.


Tại các điểm bỏ phiếu, người trong ban thu phiếu, viết giúp phiếu và kiểm phiếu đã đứng chờ cử tri đến.
Để phá hoại cuộc bầu cử, Quốc dân đảng và tay sai cho người mang tiểu liên đến làng Ngũ Xá (Hà Nội) ngăn không cho đặt hòm phiếu, cấm người dân treo cờ, thu thẻ cử tri. Nhân dân kéo sang phố Nguyễn Thái Học gần đó để bỏ phiếu.


Thanh niên, vú em, tài xế, kéo xe, ông già, bà cả... cùng xuống đường đi bỏ phiếu. Người biết chữ ghi tên đại biểu trên lá phiếu. Với những người không biết chữ, Sắc lệnh về tổng tuyển cử quy định, trước khi bắt đầu bỏ phiếu thì lập ra tiểu ban 3 người, một người của ban phụ trách bầu cử, 2 người của địa phương giúp cho người đi bầu. Một người viết, hai người kiểm tra. Viết xong thì phải tuyên thệ viết đúng, giữ bí mật trước mặt cử tri.


Gần 190.000 cử tri Hà Nội bầu ra 6 đại biểu Quốc hội đại diện cho thủ đô. Đại biểu ra mắt sau ngày bầu cử, gồm các vị: Hồ Chí Minh, Hoàng Văn Đức, Vũ Đình Hòe, Trần Duy Hưng, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Thị Thục Viên. "Trong cuộc tranh thủ hoàn toàn độc lập, chúng tôi xin thề đi trước", Chủ tịch Hồ Chí Minh nói.


Nhân dân thị xã Quảng Ngãi thực hiện quyền công dân trong ngày bầu cử. Kỳ này, cử tri nơi đây chọn được 8 người trở thành đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên.


Do lệnh hoãn cuộc tổng tuyển cử không đến kịp, nhân dân Sài Gòn và một số địa phương ở Nam Bộ vẫn tiến hành bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa I từ ngày 23/12/1945, như kế hoạch. Giặc Pháp cho máy bay oanh tạc, cho tay sai đi càn quét cuộc bầu cử. Nhân dân miền Nam đi bỏ phiếu giữa vòng kìm kẹp của khói lửa, súng đạn chiến tranh, sự đe dọa của kẻ thù. Lá phiếu bầu cử thấm máu khi hơn 40 cán bộ trong ban tuyên truyền bầu cử hy sinh. Nhiều cán bộ cách mạng, người có cảm tình với Chính phủ bị địch bắt cóc, sát hại trước ngày bầu cử.


Sau tổng tuyển cử, nhân dân bầu ra được 333 đại biểu Quốc hội trong số hàng nghìn người ứng cử và đề cử. Trong đó, Bắc Bộ có 152 người,Trung Bộ 108 và Nam Bộ 73 đại diện. Đặc biệt, có 10 đại biểu nữ.


Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa 1 diễn ra ngày 2/3/1946 tại Nhà Hát Lớn (Hà Nội). Trong ký ức của thầy thuốc ưu tú Phó Đức Thảo, nguyên Thư ký Quốc hội khóa 1 năm 1946 thì kỳ họp đó có gần 300 đại biểu ngồi kín các hàng ghế. Riêng hai hàng ghế đầu, phía bên phải (từ sân khấu nhìn xuống) dành cho đại biểu Việt quốc. Các vị này đều đeo caravat màu đỏ. Hai hàng ghế bên trái danh cho đại biểu Việt cách. Hai thành phần đại biểu này đều không phải thông qua kỳ bầu cử của toàn dân. Thảm đỏ được trải dài dọc đường giữa hội trường từ phía cửa vào cho đến sân khấu, giản dị mà trang nghiêm. Các nhà báo, phóng viên, nhiếp ảnh…đi lại lặng lẽ, trật tự. Đại biểu người nước ngoài với tư cách là quan sát viên ngồi ở ban công tầng 1, nhìn thẳng về phía sân khấu.


Trong hội trường, lá cờ đỏ sao vàng treo trên tường sân khấu, các cạnh của ngôi sao còn bầu tròn không thẳng đường như cờ ngày nay. Ba dãy ghế mây song được đặt chéo từ góc trái sang phải. Kỳ họp kéo dài trong 4 giờ, Quốc hội nghe Chính phủ báo cáo tình hình, thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến thay cho Chính phủ lâm thời. Chính phủ mới làm lễ ra mắt và tuyên thệ trước Quốc hội. "Chúng ta cùng hứa với nhau rằng Quốc hội họp lần này là Quốc hội kháng chiến và Chính phủ cử ra là Chính phủ kháng chiến. Tôi mong rằng Quốc hội họp lần sau sẽ là Quốc hội thắng lợi và Chính phủ sẽ là Chính phủ thắng lợi", vị đại biểu Quốc hội mang tấm thẻ số 305 Hồ Chí Minh tuyên đọc trong lễ bế mạc kỳ họp thứ nhất.

Giang Huy - Hoàng Phương
Ảnh tư liệu

(Nguồn: Vnexpress, 6/1/2015)

Thứ Tư, 13 tháng 1, 2016

Hoa Đào 2016


Thông tin tổng hợp

Sự kiện

Nhân tài

Nghiên cứu khoa học

Nguồn nhân lực

Sức khỏe cộng đồng

Sách hay cần đọc

Giới thiệu thơ

Thư giãn vài phút

Truyện cực ngắn

Đào tạo